“hit” có từ bao giờ
Khái niệm về “hit” đã được xuất hiện từ những năm 1950s, khi có sự ra đời của 2 bảng xếp hạng âm nhạc là UK Singles Chart (1952) và Billboard Hot 100 của Mỹ (1958). Khi bài hát đó lọt vào top 40 của bảng xếp hạng và giữ vững vị trí đó trong ít nhất 1 tuần thì mới có thể được coi là “hit”.
Vào 9 năm trước, 1 video dài 6 phút đã gây tiếng vang khi chỉ trên 1 nền nhạc duy nhất gồm 4 thanh âm họ đã liên tục hát lại các bản nhạc nổi tiếng. Cũng từ đó, những nhà sản xuất, công ty phát hành gia nhập cuộc đua thương-mại-hoá âm nhạc, với mục tiêu tìm ra cấu trúc cơ bản của những bản nhạc pop thịnh hành nhất.
Năm 2014, Spotify đã mua lại Echo Nest, 1 start-up sử dụng trí tuệ nhân tạo để phân tích âm nhạc. Không chỉ đứng sau thuật toán đưa ra gợi ý danh sách nhạc phù hợp tới từng người dùng, Spotify còn phân loại ra 1 nhóm những người có đôi tai nhạy bén. Đây là những người nghe nhạc đặc biệt nhất, bởi những ca khúc họ chọn nghe sau 1 thời gian sẽ bùng nổ và trở thành “hit”.
Ngày nay, nhằm đáp ứng nhu cầu của người dùng trên toàn thế giới, nên đã cho ra đời 2 nền tảng phát hành âm nhạc lớn nhất thế giới là Spotify và YouTube đều tạo ra bảng xếp hạng của riêng mình mang tên Wrapped và YouTube Trending.
Vậy Công thức cho những bản “hit” là gì?
Theo nhóm nghiên cứu thuộc trường Đại Học Bristol đã nghiên cứu bảng xếp hạng âm nhạc UK trong 50 năm và cho ra công thức tạo nên 1 bài hit:
Dựa vào công thức trên để chấm điểm 1 ca khúc cần có đủ 23 tiêu chí như: nhịp điệu (tempo), độ sôi động, âm lượng, năng lượng của bài hát, hoà âm… Tức, những tiêu chí (f) được nhân với “cân nặng” (w) tương ứng trên thang điểm quy định, sau đó cộng 23 kết quả lại cho ra điểm số cuối cùng. Nó cho ra kết quả có độ chính xác lên tới 60% có thể xem là cao nhất trong số các phương pháp tính toán từng được tạo ra.
Tuy nhiên, không được đưa vào các yếu tố khác ảnh hưởng tới 1 ca khúc như ngân sách quảng cáo, marketing, MV, sức hút của ca sĩ, những yếu tố xã hội, lời nhạc… Mặc dù những điều này đóng vai trò quyết định không nhỏ cho sự thành công của 1 ca khúc, nhưng công thức trên được tạo ra để có thể kiểm chứng độ thành công của ca khúc mà bất kì ai có khả năng sáng tác.
Ông hoàng thực sự đứng sau các bản hit: Max Martin
Bạn có thể chưa từng nghe đến cái tên Max Martin, nhưng người đàn ông Thuỵ Điển này là nhà sản xuất ra số lượng bài hit cao nhất mọi thời đại, chỉ sau Elton John và McCartney. Chính người đàn ông này đã đưa Taylor Swift từ nàng công chúa nhạc đồng quê trở thành nữ hoàng nhạc pop từ album Red (2012) trở đi. Và đặc biệt ông luôn khẳng định rằng “có cách” để tạo ra 1 bản pop đình đám!
Ông có khả năng tự sáng tác, tìm ra lỗi trong những ca khúc của người khác và sắp xếp lại bài nhạc như cách bác sĩ sửa chữa 1 cơ thể bệnh tật. Những người làm việc cùng Max Martin nói rằng Max có đôi tai tuyệt diệu dành cho những ca khúc nhạc pop số 1 thế giới.
“Những bài nhạc pop hay nhất thực tế là toán học. Chúng đều rất, rất có hệ thống. Đoạn hook (phần nhạc du dương và bắt tai trong bài hát nhưng không phải điệp khúc) phải được đặt ngay ở đầu bài nhằm thu hút người nghe, sau đó áp dụng chiến thuật lặp lại. Đây là điều cơ bản để tạo “hit”.
Nhạc pop của thiên tài Max Martin được làm nên từ 5 “Nguyên tố”
Viết nhạc trước, lời sau
Max là 1 người Thuỵ Điển, không hề biết tiếng Anh và được học nhạc bài bản từ nhỏ. Chính vì thế ông nhận ra rằng có những bài hát mang giai điệu rất hay và thu hút mặc dù người nghe chẳng hiểu nội dung có gì.
Có phải khi nghe nhạc của Sơn Tùng MTP bạn có cảm giác không thể nghe rõ phần lời ngay trong lần đầu tiên? Đó không phải chiêu thức “câu view” để làm bạn nghe đi nghe lại cho rõ lời hát như thường được đồn đại. Do ngày nay, chúng ta không rộng rãi với thời gian của mình đến vậy. Tuy nhiên, điều khiến bạn phải “replay” bài hát đó nhiều lần là do sự lôi cuốn của giai điệu. Mà đây mới chính là thành công trong các bài hát của Sơn Tùng MTP.
Tính thức thời
Ở bất kì thời đại nào, giới trẻ luôn giữ vai trò quan trọng nhất định hình và tạo nên xu hướng. Sự tập trung của chúng ta đang dần trở nên ngắn hơn. Chính vì vậy, phần lớn các bài nhạc hit sẽ tập trung vào 10s đầu tiên, với đoạn điệp khúc xuất hiện ngay trong 50s đầu để hạn chế sự nhàm chán cho người nghe.
Điển hình là bài “Em bỏ hút thuốc chưa?” 1 ca khúc comeback của Bích Phương vào tháng 5/2020. Lời ca được cất lên vào giây 0:10 của bài hát đây chính là gây ấn tượng ngay lập tức với chúng ta và kết quả đã mang đến thành công cho ca sĩ.
K.I.S.S ME – Keep It Simple, Singable and Memorable (đơn giản, dễ hát theo và dễ nhớ)
Đây chính là tạo nên cấu trúc câu chữ vần điệu để khi cất lên tự nó sẽ có sự du dương. Hiệu ứng này gọi là speech-to-song (từ-lời-nói-tới-âm-nhạc: khi 1 câu nói được lặp đi lặp lại nhiều lần, chúng ta sẽ nghe giống như đang hát hơn là đọc). Đồng thời, áp dụng phản đề để tạo sự tương phản trong lời bài hát. Điều này giúp người nghe dễ dàng thuộc được bài hát nhanh chóng chỉ sau 1, 2 lần nghe.
Dù thích hay không thích nội dung chủ đề ca khúc mới của Min, thì cứ nghe tên bài hát thôi là giai điệu của nó sẽ chập chờn tự phát lên trong đầu bạn. Phần điệp khúc gãy gọn, lặp đi lặp lại, dường như kể 1 câu chuyện nghe có vẻ “sai sai” và viết theo vần “iêu”.
Được vui biết bao nhiêu
Khi có người nuông ch iều (…) Được vui biết bao nh iêu
Khi có người thấu h iểu Không phải người yêu mà vui hơn rất nh iều (yah) x3
Rất nh iều x3
Kết hợp hợp âm thứ với hợp âm trưởng để tạo nút thắt bất ngờ
Đây là cách đặc biệt tạo ra 1 bài hát phù hợp với mọi tâm trạng. Tức là lấp đầy những bài hát buồn với năng lượng tích cực, đồng thời làm cho bài hát vui phảng phất chiều sâu nội tâm.
Đây là cách mà Lady Gaga tạo nên Stupid Love khi cô nàng chiêu mộ những nhà soạn nhạc “đỉnh của chóp” làm nên 1 ca khúc bắt tai, gây nghiện với phần lời lặp đi lặp lại mà… không mang ý nghĩa gì.
Áp dụng phương pháp lặp nhưng không đơn điệu
Chúng ta thích và ghét việc phải nghe 1 đoạn nhạc lặp đi lặp lại. Ghét bởi nó dẫn tới sự đơn điệu và nhàm chán. Nhưng nếu 1 ca khúc có vòng lặp với những “gia vị” bất ngờ để thưởng thức thì sao? Khi ấy nhà soạn nhạc sẽ có 1 bản hit, bởi họ đã thành công trong việc làm thính giả nghe đi nghe lại mà không biết ngán là gì.
Bạn có còn nhớ trong Rap Viet 2020, Ricky Star vừa cất lên đúng 7 từ “Bắc kim thang! Ô Bắc kim thang!” thì ngay lập tức 3 huấn luyện viên (Binz, Wowy, Suboi) đều đồng loạt bấm nút chọn? Khi Binz nhận xét Ricky có tố chất của “1 ngôi sao”, điều đó được hiểu là “có khả năng tạo hit”. Ricky biết cách làm nhạc bài bản, và còn làm rất ấn tượng.
Bắc kim thang ! Ô bắc kim thang !
Câu hát cũ nhưng khi nghe lại thì như buộc thắt tim gan
Đóng hết cửa và tắt hết đèn để nghe chuyện kể dân gian
Bỏ vào lon 1 2 viên kẹo xong rồi mình thắp cây nhang
Tuy nhiên công thức tạo “hit” không dành cho tất cả
Nhưng kể cả khi bạn đã nắm được “bí kíp” trong tay, thì không phải ai cũng có thể sáng tác được “hit”. Và đồng thời không phải nhạc sĩ nào cũng cần đi theo đúng khuôn mẫu này mới có thể tạo ra bản nhạc để đời.
Nhóm nhạc huyền thoại Queen và ca khúc Bohemian Rhapsody là 1 ví dụ vượt ra ngoài mọi tưởng tượng. Bohemian Rhapsody có độ dài 6 phút, bao gồm 1 đoạn intro, 1 phân khúc ballad, 1 trường đoạn opera, 1 phần rock và 1 đoạn coda kết thúc.
Điều này cho thấy, dù cho âm nhạc đang dần được công thức hoá và dữ liệu hoá để phục vụ cả người nghe lẫn nhà sản xuất. Nhưng điều đó không đóng khung được sự sáng tạo và những thử nghiệm không ngừng của thế hệ mới.
Đây chính là sự khẳng định cho tính trí-tuệ-cao của nghệ thuật nói chung và âm nhạc nói riêng của nhân loại. Trong cuộc chạy đua với trí tuệ nhân tạo, dường như con người tìm thấy được những điều nhân bản và thuộc về mình nhất. Trí tuệ đó cổ xưa và thông thái như câu nói của nhà triết học Hy Lạp Socrates: “Người khôn ngoan là người biết rằng mình chẳng biết gì cả.”
Ảnh tổng hợp
Tham gia group Chuyện Sinh Viên để cùng nhau chia sẻ những trải nghiệm đẹp nhất của thời thanh xuân nhé bạn yêu ơi!